Trang chủ Tin tức - sự kiện Tin tức từ trường

Thầy cô đồng hành cùng các con học sinh lớp 9 (tiếp theo - P7)

22/12/2021
Lời nhắn gửi: Các cô giáo rất muốn nhận được những chia sẻ, băn khoăn của các con sau mỗi bài học để chúng ta cùng nhau cảm nhận, thấu hiểu, trân trọng cái hay cái đẹp của từng văn bản cũng như thấm thía từng thông điệp mà mỗi nhà văn, nhà thơ gửi đến người đọc. Các con hãy mạnh dạn để lại ý kiến của mình trong phần bình luận hoặc trực tiếp chia sẻ với cô giáo bộ môn Ngữ văn của mình nhé! Nào, cô trò mình cùng đi tìm hiểu vẻ đẹp của văn chương!

ÔN TẬP NGỮ VĂN 9

PHẦN II: TRUYỆN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

VĂN BẢN: LÀNG

I. Đọc-hiểu khái quát:

1. Tác giả:

- Tên thật là Nguyễn Văn Tài (1920-2007)

- Là nhà văn có sở truờng truyện ngắn.

- Ông thường viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân.

2. Tác phẩm:

a. Hoàn cảnh sáng tác:

- Truyện ngắn được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, và đăng lần đầu trên tạp chí “Văn nghệ” năm 1948.

b. Nội dung chính:

- Truyện ngắn “Làng”khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người thời kì kháng chiến chống Pháp: Tình cảm quê hương, đất nước.

- Đây là một tình cảm mang tính cộng đồng. Nhưng thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện cụ thể, sinh động ở một con người trở thành một nét tâm lí đặc biệt ở nhân vật ông Hai, chính vì thế nó là tình cảm chung mà lại mang rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính của nhân vật.

c. Cốt truyện:

- Truyện thuộc loại có cốt truyện tâm lí, không xây dựng trên các biến cố, sự kiện bên ngoài mà chú trọng đến các tình huống bên trong nội tâm nhân vật, miêu tả các diễn biến tâm lí, từ đó làm nổi rõ tính cách nhân vật và chủ đề của tác phẩm.

d. Ngôi kể:

Ngôi kể thứ ba qua điểm nhìn của nhân vật ông Hai.

Cách kể này giúp cho nhân vật ông Hai trong truyện được đánh giá một cách khách quan, tự nhiên.

Tình yêu làng, yêu nước của ông được người đọc đánh giá khách quan.

e. Ý nghĩa nhan đề:

- Không phải ngẫu nhiên nhà văn Kim Lân lại đặt truyện là “Làng” mà đây là dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Nếu đặt tên truyện là “Làng Dầu” thì đó là danh từ riêng chỉ một địa danh cụ thể. Nó gợi cho người đọc nghĩ tình yêu làng, yêu nước chỉ trong một phạm vi hẹp ở làng Chợ Dầu của ông Hai. Như vậy, chủ đề bị thu hẹp.

- Kim Lân đặt tên là “Làng”làm nội dung truyện mang tính khái quát hơn, chủ đề sâu sắc rộng lớn hơn. Làng là cái tên chung của mọi làng quê, trên đất Việt. Và ông Hai trở thành hình ảnh tập trung tiêu biểu cho những người dân quê phải dời làng đi tản cư.

- Từ đó, nhan đề “Làng”giúp người đọc hiểu tình yêu làng quê, yêu đất nước không phải chỉ có ở mỗi ông Hai mà là một tình cảm mang tính truyền thống của nông dân ở mọi làng quê Việt Nam. Ở họ tình yêu làng quê đã hòa quyện gắn bó với lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến.

II. Đọc- hiểu chi tiết:

1. Tình huống truyện:

- Tác giả đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay cấn để làm bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước của ông.

- Tình huống ấy là cái tin làng ông theo giặc, lập tề mà chính ông nghe được từ miệng những người tản cư dưới xuôi lên.

2. Nhân vật ông Hai:

a. Tình yêu làng quê của ông Hai ở nơi tản cư:

- Vốn là một người rất yêu làng, gắn bó với làng nhưng vì hoàn cảnh gia đình nên ông phải đi tản cư.

- Ở nơi tản cư, ông Hai luôn nhớ về làng mình:

+ Lúc nào ông cũng nhớ về làng chợ Dầu “Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá!” Tình cảm nhớ làng luôn thường trực trong ông.

- Mỗi khi nhớ về làng, ông lại nhớ cái ngày còn làm việc với anh em “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá….” Những ngày ấy thật vui. Chính vì thế mỗi lần nhớ về làng ông lại thấy mình như trẻ ra.

- Ông thường ra phòng thông tin nơi tản cư để ngóng trông tin tức của làng. Ông rất vui khi nghe tin chiến thắng của quân ta:

+ Tin một em bé trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì trên Tháp Rùa.

+ Một anh trung đội trưởng sau khi giết 7 tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng.

+ Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người mua hàng đã bắt được tên quan hai bốt thao ngay giữa trợ… mà “ruột gan ông lão cứ múa cả lên”.

—> Đó là niềm vui của một con người biết gắn bó tình cảm của mình với vận mệnh của toàn dân tộc, là niềm vui mộc mạc của một tấm lòng yêu nước chân thành.

Ông Hai yêu làng bằng tin yêu máu thịt. Ở nơi, tản cư tình yêu làng của ông tiếp cận, mở rộng với tình yêu quê hương đất nước.

b. Diễn biễn tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc:

* Khi mới nghe tin:

- Cái tin làng chợ Dầu theo Việt gian bán nước đến với nhân vật ông Hai quá đột ngột, khiến ông sững sờ: “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được.”

- Khi trấn tĩnh được phần nào, ông cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng những người tản cư kể rành rọt quá mà lại khẳng định họ vừa mới từ dưới xuôi lên khiến ông không thể không tin.

- Ông đánh trống lảng ra về. Cái tin dữ xâm chiếm tâm trí ông trở thành nỗi ám ảnh day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông cúi gằm mặt xuống mà đi trong nỗi nhục nhã, ê chề.

* Trên đường về nhà:

- Từ lúc ấy, cái tin dữ như xâm chiếm toàn bộ tâm hồn ông, trở thành một nỗi ám ảnh, day dứt.

- Văng vẳng bên tai ông vẫn là tiếng chửi của người đàn bà về lũ Việt gian bán nước.

- Ông chỉ biết “cúi gằm mặt xuống mà đi”, lảng tránh ánh mắt nhìn của mọi người dù đã cố tỏ ra bình thản, che giấu tâm trạng tủi hổ và lo lắng.

* Khi về đến nhà:

- Về đến nhà, ông “nằm vật ra giường”, nhìn đàn con “nước mắt ông cứ giàn ra”, ông tự đặt một loạt câu hỏi với lòng mình. Ông tủi thân khi nghĩ “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư, cũng bị rẻ rúm, hắt hủi đấy ư?”

- Ông Hai cố không tin cái tin ấy, có xua đi cái tin ấy nhưng nó càng ám ảnh ông nhiều hơn làm ông đau đơn, xót xa, tủi nhục hơn khiến ông cứ dằn vặt, day dứt.

* Suốt mấy ngày ở nhà:

- Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu, ông chỉ ở nhà nghe ngóng xung quanh, binh tình bên ngoài.

- Lúc nào ông cũng nơm nớp, hễ thấy đám đông nào tụ tập nhắc đến hai từ “Việt gian”, “cam nhông” thì ông lại tự nhủ “Thôi lại chuyện ấy rồi.”

—> Tác giả diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi  trong ông Hai cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tinh làng mình theo giặc.

* Cuộc đấu tranh nội tâm:

- Cuộc đấu tranh nội tâm xảy ra của ông Hai khi mụ chủ nhà muốn đuổi cả gia đình ông đi, không cho người làng Việt gian ở.

- Ông Hai đã bị đẩy vào tình thế tuyệt vọng, bế tắc hoàn toàn. “Đi đâu bây giờ?”

- Ông thoáng có ý nghĩ “Hay là trở về làng”. Tuy nhiên, ông đã gạt bỏ ý nghĩ ấy bởi “Làng đã theo Tây, về làng nghĩa là rời bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ.” Ông cứ trăn trở, day dứt.

- Cuối cùng ông đã đi đến quyết định: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”.

—> Như vậy, ông Hai đã đặt tình yêu nước lên trên tình cảm yêu làng. Với quyết định đó, ta hiểu ông đã có sự nhận thức, đặt tình cảm rộng lớn lên trên tình yêu thương cá nhân.

* Lúc tâm sự với con:

- Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc đó, ông Hai chỉ biết ôm thằng con nhỏ, trút nỗi lòng mình vào trong những lời thủ thỉ, tâm sự với đứa con thơ, ông muốn con ghi nhớ câu “Làng ta là làng chợ Dầu”.

- Qua những lời tâm sự đó, thực chất là những lời tự nhủ với lòng mình, tự giãi bày với lòng mình, ta thấy tình yêu của ông Hai với làng chợ Dầu thật sâu nặng.

- Ông đã hỏi đứa con về sự ủng hộ Cách Mạng, ủng hộ cụ Hồ để một lần nữa khẳng định lòng thủy chung sâu nặng và bền vững của bố con ông đối với Cách Mạng “Anh em đồng chí có biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu, trên cổ, xét soi cho bố con ông.” Tình cảm ấy là sâu nặng, bền vững và thiêng liêng “Cái lòng bố con ông là như thế dấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.”

—> Qua cuộc trò chuyện này, ta hiểu tình cảm yêu làng, yêu nước của ông Hai đã hòa quyện, thống nhất với nhau không thể tách rời.

c. Tâm trạng của nhân vật ông Hai khi nghe tin cải chính:

- Từ cử chỉ, nét mặt thái độ đến lời nói của ông Hai thay đổi hẳn “Nét mặt buồn thiu bỗng dưng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”, ông mua quà chia cho trẻ con.

- Ông chạy đi khoe khắp làng về việc nhà mình bị Tây đốt nhẵn trong một niềm vui sướng tột độ “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa lên cải chính cái tin làng Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.” Có lẽ, việc Tây đốt nhà ông là một minh chứng hùng hồn cho việc làng ông không theo giặc, ông tự hào khi danh dự của làng ông không bị vấy bẩn.

—> Kim Lân đã rất hiểu tâm lí của những người nông dân như ông Hai nói riêng và những người dân lao động nói chung

3. Nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật ông Hai của tác giả:

- Tác giả đã đặt nhân vật vào tình huống thử thách bên trong để bộc lộ chiều sâu tâm trạng.

- Tác giả miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ…đặc biệt, diễn tả rất đúng và gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật. Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc người nông dân và thế giới tinh thần của họ.

- Ngôn ngữ nhân vật: Ngôn ngữ trong truyện rất đặc sắc, đặc biệt là ngôn ngữ nhân vật ông Hai. Những đặc điểm nổi bật trong ngôn ngữ của tác phẩm:

+ Ngôn ngữ mang đậm tính khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân.

+ Lời trần thuật và lời nhân vật  có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu, do truyện được trần thuật chủ yếu theo điểm nhìn của nhân vật ông Hai.

+ Ngôn ngữ nhân vật ông Hai vừa có nét chung của người nông dân, lại mang đậm cá tính của nhân vật nên rất sinh động.

III. Tổng kết:

1. Nội dung:

- Truyện thể hiện chân thực và sinh động một tình cảm bền chặt và sâu sắc là tình yêu làng quê thống nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến qua tâm trạng của nhân vật ông Hai – một người nông dân phải rời làng đi tản cư.

2. Nghệ thuật:

- Truyện xây dựng theo cốt truyện tâm lí, tác giả sáng tạo tình huống truyện thử thách nội tâm nhân vật, từ đó bộc lộ đời sống bên trong, tư tưởng và tình cảm của nhân vật.

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế.

- Ngôn ngữ nhân vật sinh động, giàu tính khẩu ngữu và thể hiện cá tính của từng nhân vật.

- Cách trần thuật của tác giả linh hoạt, tự nhiên.

MỘT SỐ ĐỀ LUYỆN TẬP THAM KHẢO

Đề số 1

 Cho đoạn văn sau:

      Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi:

- Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…

- Thì chúng tôi vừa ở dưới ấy lên đây mà lại. Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ. Tây vào làng chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô. Thằng chánh Bệu thì khuân cả tủ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xe cam nhông, đưa vợ con lên vị trí với giặc ở ngoài tỉnh mà lại. Có người hỏi:

- Sao bảo làng chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?…

- Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!

       Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to:

- Hà, nắng gớm, về nào…

        Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người mới tản cư lên ấy vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú:

- Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!

Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà.

1. Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm nào? Tác gỉa là ai?

2. Em hãy nêu hoàn cảnh sáng tác của văn bản chứa đoạn trích trên.

3. Em hiểu “tinh thần” trong câu: “Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?” là gì?

4. Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phương pháp lập luận tổng – phân – hợp phân tích tâm trạng của ông Hai trong đoạn trích trên, trong đó có sử dụng phép nối và thành phần tình thái.

* Gợi ý:

1. Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm nào “Làng”của nhà văn Kim Lân.

2. Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, và đăng lần đầu trên tạp chí “Văn nghệ”năm 1948.

 

3. “Tinh thần”ở đây là cách nói tắt, chỉ tinh thần hăng hái kháng chiến.

4. Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phương pháp lập luận tổng – phân – hợp phân tích tâm trạng của ông Hai trong đoạn trích trên, trong đó có sử dụng phép nối và thành phần tình thái.

* Yêu cầu hình thức:

- Đoạn văn tổng-phân-hợp khoảng 12 câu.

- Đoạn văn có sử dụng phép nối, thành phần tình thái. (có chú thích gạch chân rõ ràng)

- Kết cấu mạch lạc, bố cục rõ ràng.

* Yêu cầu nội dung: Đoạn văn phải đảm bảo các ý về nội dung như sau:

- Đoạn trích thể hiện chân thực tâm trạng của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc:

+ Cái tin làng chợ Dầu theo Việt gian bán nước đến với nhân vật ông Hai quá đột ngột, khiến ông sững sờ: “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được.”

+ Khi trấn tĩnh được phần nào, ông cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng những người tản cư kể rành rọt quá mà lại khẳng định họ vừa mới từ dưới xuôi lên khiến ông không thể không tin.

+ Ông đánh trống lảng ra về. Cái tin dữ xâm chiếm tâm trí ông trở thành nỗi ám ảnh day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông cúi gằm mặt xuống mà đi trong nỗi nhục nhã, ê chề.

- Nhà văn đã khéo léo sử dụng nghệ thuật miêu tả nội tâm (trực tiếp, gián tiếp), hình thức ngôn ngữ (đối thoại, độc thoại nội tâm).

Đề số 2

 Cho đoạn văn sau:

        “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…” cái câu nói của người đàn bà tản cư hôm trước lại dội lên trong tâm trí ông. Hay là quay về làng?… Vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức ông lão phản đối ngay. Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ… Nước mắt ông giàn ra, về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây. Ông lão nghĩ đến mấy thằng kỳ lý chuyên môn khua khoét như thế lại ra vào hống hách ở trong cái đình. Và cái đình lại như của riêng chúng nó, lại thâm nghiêm ghê gớm, chứa toàn những sự ức hiếp, đè nén. Ngày ngày chúng đóng ra, dong vào, đánh tổ tôm mà bàn tư việc làng với nhau ở trong ấy. Những hạng khố rách áo ôm như ông có đi qua cũng chỉ dám liếc trộm vào, rồi cắm đầu xuống mà lủi đi. Anh nào ho he, hóc hách một tí thì chúng nó tìm hết cách để hại, cất phần ruộng, truất ngôi, trừ ngoại, tống ra khỏi làng…

        Ông Hai nghĩ rợn cả người. Cả cuộc đời đen tối, lầm than cũ nổi lên trong ý nghĩ ông. Ông không thể về cái làng ấy được nữa. Về bây giờ ra ông chịu mất hết à? Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.

1. Em hiểu gì về suy nghĩ của ông hai trong câu văn sau: “Về bây giờ ta ông chịu mất hết à?”

2. Đoạn văn trên sử dụng hình thức ngôn ngữ nào? Nêu tác dụng của việc sử dụng hình thức ngôn ngữ đó.

* Gợi ý:

1. Trong đoạn trích trên, ông Hai nghĩ “Về bây giờ ra ông chịu mất hết à?” “Mất hết”ở đây có nghĩa là quay về cuộc sống lầm than, ô nhục, mất danh dự, tự trọng, mất tự do, mất đi lòng trung thành với kháng chiến.

2. Đoạn văn trên chủ yếu sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Nó diễn tả xung đột nội tâm sâu sắc của nhân vật ông Hai khi bị bà chủ nhà đánh tiếng đuổi đi.

Đề số 3

Trong Làng, Kim Lân có kể về ông Hai cứ múa tay lên mà khoe nhà ô ng bị giặc đốt, đốt nhẵn. Chi tiết này dường như vô lí. Ý kiến của em thế nào?

* Gợi ý :

- Mới đọc ta thấy dường như vô lí bởi ngôi nhà là một tài sản lớn, nó còn gắn bó với bao kỉ niệm vui buồn rất thiêng liêng của mỗi người,mất nó ai mà không xót xa đau đớn

- Nhưng đặt ông Hai trong hoàn cảnh của « Làng » - làng Dầu đang bị hai tiếng Việt gian theo Tây- thì ông Hai không vui sướng sao được vì nhà bị Tây đốt là bằng chứng hùng hồn rằng làng Dầu của ông vẫn theo kháng chiến,theo cách mạng

→ Ông đã quên nỗi đau,sự mất mát riêng để tự hào, sung sướng trong vẻ đẹp, sức mạnh chung của làng quê đất nước. Thế mới biết ông Hai yêu làng quê tha thiết đến chừng nào. Tình yêu làng quê được mở rộng, hòa quyện trong tình yêu Tổ quốc thật sâu nặng và thiêng liêng.

Đề số 4

 Tình yêu quê hương là một đề tài rất quen thuộc trong văn học. Hãy chỉ ra nét riêng đặc sắc của truyện ngắn Làng khi khai thác đề tài này?

* Gợi ý:

- Nét riêng,đặc sắc của truyện ngắn này là đã nêu được mối quan hệ giữa tình cảm làng quê và tình yêu nước trong hoàn cảnh chiến tranh.

- Bằng cách tạo ra một tình huống có sự xung đột giữa hai tình cảm ấy,truyện đã cho thấy lòng yêu nước là tình cảm lớn lao bao trùm trong con người kháng chiến, chi phối các tình cảm khác.

- Tình yêu làng ở ông Hai trở thành niềm đam mê, hãnh diện, thành thói quen khoe làng.

- Tình yêu làng quê dù có sâu nặng đến đâu cũng phải nằm trong tình yêu nước, không thể đi ngược lại với lòng yêu nước,với quyền lợi của cả dân tộc

                                                                                                     (Còn nữa)


Đánh giá:
Tổng số điểm của bài viết là: 0/5 trong 0 đánh giá
Chia sẻ: