Trang chủ Thành công trong tôi Trải nghiệm và kiến thức

Thầy cô đồng hành với các con học sinh lớp 9: Ôn tập ngữ văn 9 - Bài thơ về tiểu đội xe không kính

11/12/2021
Các con học sinh lớp 9 thân yêu!Các con đã đi được gần nửa chặng đường của năm cuối cấp bộn bề khó khăn, thử thách! Những ngày chuẩn bị cho những bài kiểm tra cuối kì I này, các con nhiều âu lo, vất vả hơn các em học sinh lớp 6,7,8. Thấu hiểu và thương các con nhiều hơn, các thầy cô giáo đã, đang và sẽ đồng hành cùng các con trên chặng đường về đích sắp tới! Hãy vững lòng tin, các con nhé! “Dưới ánh đèn khuya”, cô trò mình cùng thức để cho một ngày mai tươi sáng!Các cô giáo của nhóm Ngữ văn 9 sẽ lần lượt gửi tới các con các kiến thức trọng tâm của các văn bản và một số đề minh họa để các con làm quen dần nhé! Hãy kiên nhẫn, chăm chỉ để gặt hái thành công trong các kì kiểm tra! Yêu thương và tin tưởng các con!

TRƯỜNG THCS THÀNH CÔNG                                                          

NĂM HỌC 2021-2022

ÔN TẬP NGỮ VĂN 9

PHẦN I: THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM

VĂN BẢN: BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

I.TÌM HIỂU CHUNG

A. TÁC GIẢ:

- Phạm Tiến Duật (1941 - 2007), quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.

- Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước.

- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua hình tượng người lính và nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.

Phong cách sáng tác: Thơ Phạm Tiến Duật mang giọng điệu tự nhiên, sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch; ngôn ngữ đời thường, chân mộc;...

- Nhiều bài thơ của ông đi vào trí nhớ của công chúng như: “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”; “Gửi em, cô thanh niên xung phong”; “Bài thơ về tiểu đội xe không kính ”;...

B. TÁC PHẨM

 1.Xuất xứ:

- Bài thơ được viết năm 1969, lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang diễn ra ác liệt, tác giả khi đó cũng là chiến sĩ ở Trường Sơn, gắn bó với những cung đường và những chiến sĩ lái xe quân sự.

- Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào tập thơ Vầng trăng quầng lửa của tác giả.

2. Nhan đề: Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng lại thu hút sự chú ý của người đọc.

- Nhan đề làm nổi bật rõ hình ảnh của toàn  bài: những chiếc xe không kính. => hình ảnh này là phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu hiện thực đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn.

- Nhan đề thêm chữ “ bài thơ” cho thấy rõ cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải  chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà điều chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn nói đến chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, thiếu thốn, gian khổ hiểm nguy của chiến tranh.

II. TÌM HIỂU CHI TIẾT:

  1. Hình ảnh những chiếc xe không kính trong bài thơ:
  •    Thực ra, trước Phạm Tiến Duật đã có rất nhiều phương tiện giao thông đã được các nghệ sĩ đưa vào trong thơ của mình. Đó là hình ảnh của một con tàu tiến lên Tây Bắc trong bài "Tiếng hát con tàu" của Chế Lan Viên hay đó là con thuyền tiến ra khơi đánh bắt cá của những người ngư dân miền chài lưới trong bài thơ "Quê hương" của Tế Hanh, "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận... Nhưng tất cả những xe cộ, tàu thuyền ấy khi đi vào thơ đều được lãng mạn hóa, mang một ý nghĩa biểu tượng nào đó. Còn những chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật lại xuất phát từ hình ảnh có thực, thật đến trần trụi.
  •  Mở đầu bài thơ là lời giới thiệu về hình ảnh của những chiếc xe không kính vẫn băng băng tiến ra chiến trường. Tác giả chỉ ra nguyên nhân của những chiếc xe không có kính bằng một câu thơ văn xuôi rất tự nhiên, rất chân thực:

                             “ Không có kính không phải vì xe không có kính

                               Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”

  • Điệp từ “không” được lặp lại ba lần trong một dòng thơ kết hợp với động từ mạnh “giật” , “rung” vừa có ý nghĩa giải thích nguyên nhân xe không có kính, lại vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự dữ dội, tàn phá của chiến tranh. Không dừng lại ở đó, trong chiến tranh bom rơi đạn lạc, những chiếc xe không chỉ bị vỡ kính mà còn bị biến dạng trở nên hết sức trần trụi khủng khiếp:

                               “Không có kính, rồi xe không có đèn

   Không có mui xe, thùng xe có xước”

  • Điệp từ “không có…” kết hợp với cách liệt kê hình ảnh các bộ phận thiếu thốn của xe “kính, mui, đèn, thùng xe” đã cho thấy cái nhìn rất chân thực về chiến tranh. Đó là sự hủy diệt vô cùng tàn khốc của bom rơi, đạn lạc nơi chiến trường xa xôi.

=>Những chiếc xe không kính vốn không phải hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm, có nét ngang tàng, tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thơ trở thành biểu tượng độc đáo của thơ thời chiến tranh chống Mĩ.

=> Hình ảnh độc đáo, nói lên cái ác liệt, dữ dội của chiến tranh, vừa bộc lộ phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu khốc liệt chống đế quốc Mĩ.

  1. Hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường Sơn:
  •  Chủ nhân của những chiếc xe không kính ấy là những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Phạm Tiến Duật đã dùng thủ pháp "đòn bẩy", những chiếc xe không kính càng trần trụi, khốc liệt bao nhiêu thì phẩm chất của những người lính lái xe lại càng nổi bật lên bấy nhiêu.
  • Qua đó tác giả muốn cho người đọc thấy được: lòng quả cảm, can trường, bất chấp mọi hiểm nguy, thiếu thốn của người lính lái xe nơi chiến trường.
  •  Mặc dù những chiếc xe bị hủy hoại, tàn phá nhưng người lính vẫn rất hiên ngang, ngạo nghễ vững tay lái cho xe lăn bánh ra chiến trường:

   Ung dung buồng lái ta ngồi

                               Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

   Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

                             Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

                              Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

                               Như sa, như ùa vào buồng lái.

-Các câu thơ được viết lên bằng sự trải nghiệm của người trong cuộc nên vô cùng chân thực. Không có kính nên các anh chiến sĩ phải đối diện với biết bao nhiêu là sự nguy hiểm, khó khăn. Nào là “gió vào xoa mắt đắng”, nào là sao trời, cánh chim “như sa, như ùa vào mặt, vào người, vào buồng lái của người lính lái xe.

-Các động từ mạnh “chạy thẳng, đột ngột, như sa, như ùa” đã cho thấy những cảm giác đầy căng thẳng, thách thức và hiểm nguy mà người lính phải đối diện.

- Tuy nhiên, đứng trước hoàn cảnh ấy, người lính không hề run sợ, hoảng hốt, né tránh mà trái lại rất đàng hoàng, hiên ngang, thoải mái:

“Ung dung buồng lái ta ngồi

 Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng".

-Nghệ thuật đảo ngữ đẩy động từ “ung dung” lên trước đã cho thấy tư thế rất tự tin, bình thản và có phần ngang tàng của người lính.

-Điệp từ “nhìn”, “thấy” được lặp đi lặp lại cho thấy tất cả khung cảnh thiên nhiên như bỗng chốc bé lại, thu vào đôi mắt của người lính. Điều đó không chỉ cho thấy sự tập trung cao độ của một tinh thần trách nhiệm lớn lao mà còn cho thấy được tâm hồn lãng mạn, hiên ngang, mở lòng đón nhận vẻ đẹp thiên nhiên của người lính qua ô cửa kính vỡ.

  - Trên dọc đường lái xe ra tiền tuyến, người lính còn chịu rất nhiều những khó khăn từ ngoại cảnh như gió, mưa, bụi:

   “Không có kính, ừ thì có bụi

   Bụi phun tóc trắng như người già”

                             “Không có kính, ừ thì ướt áo

                             Mưa tuôn xối như ngoài trời”

 -  Nhưng với tinh thần quả cảm, mạnh mẽ, bất chấp, người lính đã vượt qua tất cả:

   Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

                                        Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

                                       “Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

                                       Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”

   -Điệp ngữ “Không có kính, ừ thì…”; “chưa cần…” là lối nói mang đậm tính khẩu khí ngang tàng. Với cách nói nôm na, thông thường mà cứng cỏi, mạnh mẽ họ đã biến những khó khăn thành những điều thú vị.

-Người đọc như nghe thấy tiếng cười rũ sạch mọi gian khổ của người lính. Những chi tiết hình ảnh: “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười ha ha” hay “lái trăm cây nữa… khô mau thôi” đã cho thấy tinh thần vượt mọi khó khăn gian khổ của họ. Cảm giác như những khó khăn ấy cũng không thể nào dập tắt đi chất trẻ trung, tinh thần lạc quan và dũng cảm của người lính.

   -Người lính lái xe không chỉ hiện lên là những chàng dũng sĩ, hiên ngang, bất khuất, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm mà họ còn là những người chiến sĩ trẻ tuổi, trẻ lòng chan chứa tình đồng chí, đồng đội. Có thể nói, khó khăn, thử thách không chỉ tôi luyện cho người lính thêm bản lĩnh, thêm ý chí, nghị lực kiên cường mà còn giúp cho tình bạn, tình đồng chí, đồng đội của họ thêm gắn bó, keo sơn:

                             Những chiếc xe từ trong bom rời

                               Đã về đây họp thành tiểu đội

                              Gặp bạn bè giữa dọc đường đi tới

                             Bắt tay qua cửa kính vỡ đi rồi.

  -Trên dọc đường từ hậu phương ra tiền tuyến có biết bao nhiêu những chiếc xe không kính ào ào ra trận. Họ gặp gỡ nhau và chào hỏi nhau bằng cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ. Cái cầm tay, nắm tay là một hành động đẹp, chứa chan tình cảm đồng chí đồng đội. -Họ truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, động viên và cảm thông với nhau lúc hiểm nguy khó khăn, vất vả. Họ coi nhau như anh em ruột già máu mủ trong gia đình:

   Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

   Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

   Võng mắc chông chênh đường xe chạy

                    Lại đi, lại đi trời xanh thêm

  - Ta bắt gặp cách định nghĩa rất riêng của Phạm Tiến Duật về gia đình – về mối quan hệ thiết thân của những người lính trong chiến tranh, đó là: chung bát đũa, chung bếp lửa, chung hoàn cảnh khó khăn, chung con đường chiến đấu…

-Tất cả những điều ấy đã khiến những con người vốn xa lạ nhưng lại hóa quen nhau, thân thiết gắn bó keo sơn, đoàn kết cùng nhau vì lí tưởng cách mạng cao đẹp.

=>Chính tình cảm đồng chí, đồng đội đã tiếp sức cho những người lính tiến lên phía trước: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.

- Điệp từ “lại đi” có ý nghĩa nhấn mạnh đến những đoàn xe không kính không ngừng tiến lên phía trước.

-Hình ảnh “trời xanh thêm” là hình ảnh ẩn dụ cho tâm hồn lạc quan, yêu đời, chan chứa niềm hi vọng của người lính vào tương lai phía trước của cuộc sống, của cách mạng.

 - Những câu thơ được viết ra mang đậm khẩu khí ngang tàn sôi nổi của những người lính kháng Mĩ. Họ hăm hở nhập ngũ lên đường với một mục tiêu cao cả tiêu diệt giặc, bảo vệ quê hương. Mọi khó khăn, gian nan, mọi hiểm nguy, trông gai, những người lính đã chia sẻ, động viên giúp đỡ lẫn nhau cùng vượt qua thử thách. Người đọc như cảm nhận thấy mọi khó khăn ấy đều trở nên nhẹ tựa lông hồng trước tiếng cười lạc quan của anh bộ đội cụ Hồ.

  => Cuối cùng, động lực mạnh mẽ và sâu xa tạo nên sức mạnh tinh thần lớn lao, bất chấp mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt, tàn phá của kẻ thù ở người chiến sĩ đó chính là ý chí chiến đấu vì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

                             Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

   Chỉ cần trong xe có một trái tim.

 -  Bom, đạn có thể làm chiếc xe trở nên trần trụi, tàn tạ nhưng không thể nào đè bẹp được ý chí chiến đấu của những người lính lái xe. Hình ảnh “trái tim” vừa là hình ảnh hoán dụ, vừa là hình ảnh ẩn dụ cho sức mạnh, lòng dùng cảm, niềm lạc quan và tình thần yêu nước mạnh mẽ của người lính. Chính “trái tim” của họ là một động cơ hoàn hảo, có thể thay thế cho toàn bộ những cái “không có” bên trên của những chiếc xe hư hỏng, trần trụi. Tất cả vì một mục tiêu cao cả mà người lính lái xe đã xác định cho mình “vì miền Nam” ruột thịt. Hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ là một bức tượng đài rực rỡ và chói sáng, một biểu tượng cao đẹp cho một thế hệ thanh niên Việt Nam trong thời kì kháng Mĩ cứu nước với tinh thần:

                             Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

                             Mà lòng phơi phới dạy tương lai.

   Điều đó cho thấy tinh thần yêu nước sâu sắc và sự ý thức trách nhiệm công dân cao độ của những người lính khi tổ quốc lâm nguy.

  => Tóm lại, với một giọng thơ trẻ trung, tinh nghịch, ngạo nghễ, ngang tàng; kết hợp với ngôn ngữ thơ giản dị, sống động, giàu hình ảnh, giàu tính nhạc điệu...Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công những chiếc xe không kính và làm nổi bật hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ: dũng cảm hiên ngang, lạc quan yêu đời và giàu ý chí chiến đấu, tinh thần yêu nước mạnh mẽ, sắt son. Dù chiến tranh đã lùi về quá khứ, lịch sử dân tộc đã bước sang trang mới: tự do – độc lập nhưng hình ảnh những chiếc xe bị bom đạn tàn phá cùng những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn chống Mĩ vẫn mãi sống với thời gian và trong lòng dân tộc

 

II. TỔNG KẾT

1. Nội dung

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” Phạm Tiến Duật đã xây dựng thành công hình tượng những người lính lái xe Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ một cách chân thực, độc đáo với nhiều phẩm chất đẹp đẽ.

2. Nghệ thuật

- Thể thơ tự do, đậm chất văn xuôi.

- Hình ảnh thơ mang chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường.

- Ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ tự nhiên.

- Giọng điệu ngang tàng, khỏe khoắn, hài hước, dí dỏm.

MỘT SỐ ĐỀ LUYỆN TẬP THAM KHẢO:

 

ĐỀ SỐ 1:

 

Hình ảnh người lính là nguồn đề tài dào dạt trong thơ ca Việt Nam thời chống Mỹ, Phạm Tiến Duật cũng góp vào đó thi phẩm đặc sắc “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Trong bài thơ, ông viết:

                    Võng mắc chông chênh đường xe chạy

                    Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

                                                        (Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục năm 2019)

1, Nêu hoàn cảnh sáng tác và cho biết ý nghĩa nhan đề của bài thơ. 

2, Trong hai câu thơ trên, tác giả sử dụng những biện pháp tu từ nào? Nêu rõ hiệu quả nghệ thuật của các biện pháp nghệ thuật đó.  

3, Bài thơ được khép lại bằng những câu thơ sau:

Không có kính rồi xe không có đèn,

Không có mui xe thùng xe có xước.

Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước,

Chỉ cần trong xe có mộ trái tim.

          Dựa vào khổ thơ trên, em hãy viết một đoạn văn khoảng 12 câu theo phép lập luận diễn dịch để làm rõ vẻ đẹp của những người lính lái xe Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Trong đoạn văn có sử dụng một lời dẫn trực tiếp và một câu ghép. Gạch chân và chú thích. (3.5 điểm)

4. Kể tên một tác phẩm (ghi rõ tên tác giả) trong chương trình Ngữ văn THCS cũng nói về  người lính.

GỢI Ý:

Câu 1: Hoàn cảnh sáng tác : Bài thơ được sáng tác năm 1969, thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt. Khi đó, nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đang là một người lính chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn. 

  • Ý nghĩa nhan đề

+ Nhan đề độc đáo, dài => gây được sự chú ý của người đọc => làm nổi bật hình tương xuyên suốt bài thơ: những chiếc xe không kính từ đó phản ánh hiện thực của chiến trường.

+ Hai chữ bài thơ => tưởng như thừa => cho thấy nhà thơ tập trung khai thác chất thơ vút lên từ hiện thực gian khổ, chất thơ của tuổi trẻ hiện ngang, dũng cảm, trẻ trung, vượt lên trên thiếu thốn, gian khổ.

+ Thể hiện rõ tư tưởng chủ đề: Ca ngợi những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn

Câu 2: Điệp ngữ: lại đi

  • ẩn dụ: trời xanh

Tác dụng:

+ Phép điệp ngữ lại đi như một lời thúc giục, gợi tả, nhấn mạnh nhịp đi mạnh mẽ, dứt khoát không kẻ thù nào có thể ngăn cản được. Từ đó gợi hành trình bất tận không ngừng nghỉ của tiểu đội xe không kính

  • + ẩn dụ: trời xanh: gợi tâm hồn chan chứa lạc quan, đầy hi vọng vào ngày mai thống nhất => niềm yêu đời của những người lính trẻ.

+ Thể hiện rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm: ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn ….

Câu 3:* HT: đúng đoạn văn diễn dịch ; sử dụng Tiếng việt đúng, có gạch chân, chú thích ; dung lượng đủ

* Nội dung: Bám sát ngữ liệu và khai thác các từ ngữ, hình ảnh, các biện pháp tu từ, giọng điệu thơ … => vẻ đẹp và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn qua những ý cơ bản sau:

- Trải qua mưa bom bão đạn, những chiếc xe ban đầu không có kính càng trở nên biến dạng, trần trụi hơn. Phép liệt kê, điệp ngữ không có => nhấn mạnh sự thiếu thốn đến trận trụi của những chiếc xe và sự ác liệt của chiến trường.

- Nhưng điều kì diệu là những chiếc xe vẫn băng băng tiến ra chiến trường với sức mạnh lớn lao vì một miền Nam ruột thịt.

- Tac giả lí giải điều kì diệu đó bằng hình ảnh: Chỉ … tim

- Kết cấu đối lập giữa 2 phương diện: vật chất và tinh thần; giữa vẻ bề ngoài và bên trong; đối lập giữa cái không có và cái có. Đó là trái tìm – sức mạnh người lính…

- Trái tim là hình ảnh hoán dụ và ẩn dụ chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn và tượng trưng cho vẻ đẹp tâm hồn của họ - tình yêu Tổ quốc, một lòng hướng về miền Nam ruột thịt. Trái timnhãn tự tập trung thể hiện chủ đề, gợi cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.

Câu 4: tác phẩm (ghi rõ tên tác giả) trong chương trình Ngữ văn THCS cũng nói về  người lính: Đồng chí – Chính Hữu.

ĐỀ SỐ 2:

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Phạm Tiến Duật ca ngợi người lính lái xe trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.

1. Em hãy nêu hoàn cảnh ra đời bài thơ.

2. Vì sao tác giả lại thêm từ “bài thơ vào nhan đề của tác phẩm mà tự nó đã là một bài thơ?

3. Xác định những từ thuộc trường từ vựng “thái độ, cảm xúc của con người” trong khổ 3,4 của bài thơ.  Nêu tác dụng của những từ đó trong việc khắc hoạ vẻ đẹp của người lính.

4. Trong bài thơ, nhà thơ có viết:

                                       Những chiếc xe từ trong bom rơi

                                       Đã về đây họp thành tiểu đội

                                       Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

                                       Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

 

                                        Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

                                       Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

                                       Võng mắc chông chênh đường xe chạy

                                        Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.

                                                         (Ngữ Văn 9, tập một, NXB Giáo dục, tr. 132)

   Em hãy viết đoạn văn lập luận theo cách diễn dịch (khoảng 12 câu) làm rõ tình đồng chí của người lính lái xe được khắc hoạ trong đoạn thơ trên. Trong đoạn có sử dụng hợp lí một câu nghi vấn bộc lộ cảm xúc và một từ láy (gạch dưới và chú thích rõ câu nghi vấn và từ láy em đã sử dụng).

5. Kể tên một bài thơ trung đại em đã học ở cấp THCS cũng ca ngợi tình bạn. Nêu tên tác giả bài thơ đó

GỢI Ý:

1. HS nêu đúng hoàn cảnh ra đời: năm 1969, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt trên tuyến đường Trường Sơn.

2.Tác giả thêm từ « bài thơ »  vì :

+ từ đó thể hiện cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả

+ thể hiện chất thơ của những chiếc xe không kính, chất thơ từ hiện thực khốc liệt của chiến trường, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam hiên ngang bất khuất trên đường Trường Sơn

3.Các từ thuộc trường từ vựng : ừ thì, cười,  chưa cần

  • Tác dụng:
  • làm nổi bật vẻ đẹp của những người lính lái xe

+ thái độ thản nhiên, chấp nhận gian khó, coi gian khổ chỉ là chuyện nhỏ

+ qua đó thấy được tinh thần lạc quan, vượt lên gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ của những người lính lái xe

4.* Nội dung:

Học sinh biết tiếp cận đoạn thơ, phân tích các yếu tố nghệ thuật  để thấy  tình đồng chí của người lính :

 - Sự hình thành tiểu đội xe không kính  là từ  những chiếc xe từ trong bom rơi à Những người lính lái xe gắn bó với nhau thật cảm động bởi họ cùng vào sinh ra tử 

- Con đường Trường Sơn, con đường giải phóng miền nam gắn kết những người lính thành bạn bè thân thiếtà    Đó là tình cảm rộng lớn của những người đồng chí cùng chung nhiệm vụ, lý tưởng

- cử chỉ bắt tay qua cửa kính vỡà tình đồng chí của những người lính vui nhộn : cái bắt tay chào hỏi, chia sẻ niềm vui…

- qua bữa cơm, qua định nghĩa về gia đình à  tình đồng chí sâu sắc như tình thân ruột thịt của người lính

- Nghệ thuật: Hình ảnh thơ giản dị, ngôn ngữ thơ tự nhiên…

Hình thức:

- Đủ số câu (+/- 1 câu), đúng hình thức đoạn văn

- Diễn đạt trôi chảy, trình bày sạch đẹp, không mắc lỗi chính tả (0,25 điểm)

- Đoạn diễn dịch

* Tiếng Việt: Có gạch chân, chú thích

- Đúng câu nghi vấn , từ láy và dùng hợp lý

« Bạn đến chơi nhà » –Nguyễn Khuyến

ĐỀ SỐ 3:

Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật được mở đầu bằng một đoạn thơ rất độc đáo:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng…”

(Trích Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam)
Câu hỏi

1. Em hãy cho biết bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nào?
2. Nhan đề bài thơ có gì khác lạ và có ý nghĩa như thế nào?

3. Tại sao có thể nói hình ảnh những chiếc xe không kính là một sáng tạo độc đáo của Phạm Tiến Duật.

4. Xác định biệp pháp tu từ điệp ngữ trong đoạn thơ và nêu tác dụng?
5. Từ bài thơ trên và những hiểu biết xã hội, em hãy trình bày suy nghĩ (khoảng 2/3 trang giấy thi) về vai trò của thế hệ trẻ ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
GỢI Ý:

Câu 1: Bài thơ được sáng tác năm 1969, thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt. Khi đó, nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đang là một người lính chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn. 
Câu 2: - Điểm khác biệt: Nhan đề bài thơ khá dài, thêm chữ “bài thơ”tưởng như không cần thiết.
- Ý nghĩa:
+ Làm nổi bật hình ảnh của toàn bài : những chiếc xe không kính
+Cho thấy rõ cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không chỉ viết về hiện thực chiến tranh mà chủ yếu muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy , chất thơ của tuổi trẻ, chất thơ trong tâm hồn người lính.
+ Góp phần làm sáng rõ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
Câu 3:
Hình ảnh những chiếc xe không kính là một sáng tạo độc đáo của Phạm Tiến Duật bởi xưa nay hình ảnh tàu xe đi vào thơ ca đều được lãng mạn hóa, mỹ lệ hóa nhưng Phạm Tiến Duật lại không ngần ngại đưa vào thơ của mình hình ảnh trần trụi, thực tế “những chiếc xe không kính”.

Hình ảnh những chiếc xe không kính là nhân chứng hùng hồn, chân thực cho hiện thực chiến tranh khốc liệt lúc bấy giờ. Với tâm hồn lãng mạn, nhạy cảm cùng với nét tinh nghịch, ngang tàng hình tượng những chiếc xe không kính xuất hiện trong thơ như để thử thách con người, cũng như để khẳng định chất thép, tinh thần dũng cảm, lạc quan coi thường hiểm nguy của những người lính lái xe Trường Sơn.

Câu 4.
- Điệp ngữ “không” được lặp lại ba lần trong câu thơ đầu tiên.
Tác dụng: Nhấn mạnh hiện thực thiếu thốn, gian khổ của điều kiện, phương tiện chiến đấu; nhấn mạnh nét ngang tàng, hồn nhiên qua giọng điệu tinh nghịch của người lính trẻ.
- Điệp ngữ “bom” lặp lại hai lần trong câu thơ thứ hai.
Tác dụng: Nhấn mạnh hiện thực khốc liệt của tuyến đường Trường Sơn cũng như những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước. 
- Điệp ngữ “nhìn” lặp lại ba lần trong câu thơ thứ tư.
Tác dụng: Nhấn mạnh tư thế hiên ngang, chủ động, ung dung, tinh thần lạc quan, dũng cảm bất chấp mọi khó khăn hiểm nguy của người lính lái xe.
- Các điệp ngữ góp phần tạo nhạc điệu cho lời thơ.
Câu 5.
- Giải thích : làm rõ cách hiểu về “thế hệ trẻ ngày nay”, “sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
- Phân tích:
+ Khẳng định được vai trò quan trọng, những đóng góp to lớn của thế hệ trẻ ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Chỉ rõ được lí do vì sao thế hệ trẻ ngày nay có vai trò quan trọng như vậy.
- Nêu biểu hiện:
+ Nêu bật được vai trò của thế hệ trẻ ngày nay trong sự nghiệp xây dựng Tổ quốc trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
+ Làm rõ được vai trò của thế hệ trẻ ngày nay trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong tình hình thế giới đang diễn ra phức tạp.
- Bàn luận, mở rộng vấn đề.
+ Với vai trò, sứ mệnh như vậy, thế hệ trẻ cần làm gì?
+Phê phán những biểu hiện sống thiếu trách nhiệm.
+ Liên hệ bản thân.

                                                                                                ( Còn nữa)

                              

                                          Chúc các con làm bài thật tốt!

 

 

 


Đánh giá:
Tổng số điểm của bài viết là: 0/5 trong 0 đánh giá
Chia sẻ: